Documentos de Académico
Documentos de Profesional
Documentos de Cultura
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
Gần đây với sự phát triển nhanh chóng của internet cần phải có một dung lượng
mạng rất lớn. Kĩ thuật WDM ra đời đã hiện thực hóa khả năng tận dụng dải thông vô
cùng lớn của sợi quang, có thể xây dựng mạng diện rộng với dung lượng hàng
terabit/s, đặc biệt là kĩ thuật DWDM ( Dense WDM ). Mạng WDM cung cấp tốc độ dữ
liệu rất cao, xác suất lỗi và độ delay thấp có thể đáp ứng với các ứng dụng như
supercomputer visualization, medical imaging, và CPU interconnect [11].
Sự ra đời của các bộ khuếch đại quang OA ( Optical Amplifier ), bộ ghép kênh
xen-rẽ quang OADM ( Optical Add-Drop Multiplexer ) và nối chéo quang OXC
( Optical Cross-Connect ) đã làm chuyển biến các mạng thông tin quang từ mạng
WDM điểm nối ( Point-to-Point ) sang mạng toàn quang ( all optical ).
Trong các mạng WDM điểm nối điểm, tín hiệu quang phải được chuyển sang
tín hiệu điện, qua các bộ đệm rồi phát lại tín hiệu quang tại các node trung gian trước
khi đạt đến node đích. Quá trình chuyển đổi quang-điện-quang tại các node trung gian
đã làm gia tăng thời gian trễ của tín hiệu. Mặt khác quy trình chuyển đổi này đòi hỏi
các node phải có bộ đệm đủ lớn cũng như làm tăng số lượng các bộ thu phát quang tại
mỗi node. Trong mạng toàn quang, mỗi thông tin được chuyển từ node nguồn đến
node đích thông qua một đường quang ( lightpath ). Một lightpath là một đường dẫn
quang thiết lập giữa 2 node trong mạng, được tạo ra bằng cách phân cùng bước sóng
trong suốt đường dẫn. Điều kiện mà cùng bước sóng được lưu trữ trên tất cả các liên
CHƯƠNG 2
GIỚI THIỆU VỀ MẠNG WDM
Tx1 Rx1
DE-
Tx2 MUX MUX Rx2
Công nghệ WDM đối với sự nâng cấp mở rộng dung lượng, phát triển dịch vụ
băng rộng (như CATV, HDTV và B–ISDN…), khai thác đầy đủ tiềm năng băng rộng
của sợi quang, hiện nay có thêm bộ khuếch đại quang sợi (EDFA) thì WDM càng có
sức hấp dẫn to lớn với mạng thông tin hiện đại.
Để phát triển, nếu tất cả dây kết nối quang truyền dẫn trong một khu vực nào đó
đều nâng cấp thành truyền dẫn WDM, chúng ta sẽ đặt ở chỗ những dây kết nối WDM
này giao nhau những thiết bị đấu chéo quang (OXC) lấy bước sóng làm đơn vị nối
chéo dây đối với tín hiệu quang, hoặc thiết bị ghép/tách kênh quang (OADM) để
ghép/tách, thì ở trên lớp vật lý do đường dây kết nối quang tạo thành sẽ hình thành một
lớp quang mới.
Công nghệ WDM có thể được sử dụng ở nhiều vùng mạng khác nhau trong
mạng viễn thông bao gồm các mạng xương sống (mạng đường trục), mạng truy nhập
nội hạt và các mạng LAN, trong đó mạng đường trục là mạng đầu tiên ứng dụng công
nghệ WDM, sau đó là mạng LAN.
Vị trí hệ thống WDM trong mạng truyền dẫn như trong hình 2.2 trong đó quan
hệ giữa SDH và WDM là quan hệ giữa lớp khách hàng và lớp phục vụ. Tương ứng với
công nghệ WDM, tín hiệu SDH, PDH và ATM đều chỉ là tín hiệu dịch vụ của hệ thống
WDM.
Xét từ phương hướng phát triển của hệ thống WDM, kết hợp bộ ghép/tách kênh
(OADM) và bộ nối chéo (OXC) sẽ thành một lớp mạng – mạng truyền dẫn quang. Sự
phát triển tiếp theo của mạng truyền dẫn là phải xây dựng một lớp mạng ở dưới lớp
điện SDH, tức sẽ tách mạng truyền dẫn về topo thành hai lớp quang và điện mà hệ
thống WDM là hạt nhân của “lớp mạng quang”.
DXC ATM
Hệ thống WDM
OAM OXC
Hình 2.2 : Vị trí của hệ thống WDM trong mạng truyền dẫn
- Hệ thống WDM ghép kênh những bước sóng truyền dẫn trong sợi đơn mode,
khi truyền đường dài dung lượng lớn có thể tiết kiệm số lượng lớn sợi quang.
- Sử dụng hệ thống WDM có thể giảm yêu cầu siêu cao tốc độ truyền dẫn đối
với linh kiện, đồng thời có thể truyền dẫn dung lượng lớn.
- Có thể thực hiện công nghệ IP trên WDM.
- Hệ thống WDM có tính linh hoạt, tính kinh tế và độ tin cậy cao của cấu hình
mạng trong việc định tuyến, chuyển mạch và khôi phục mạng.
2.2. Cấu trúc mạng WDM
2.2.1. Cấu trúc mạng WDM điểm nối điểm
Cấu trúc mạng WDM điểm nối điểm được xem là đơn giản nhất của mạng
xương sống sử dụng công nghệ WDM.
Mỗi kênh bước sóng được sử dụng để truyền tải một luồng dữ liệu riêng biệt.
Tất cả các kênh bước sóng được tổ hợp thành một chùm sáng tại bộ ghép bước sóng
WDM để đưa vào một sợi quang.
Ở đầu thu chùm sáng sau khi đã tổ hợp nhiều bước sóng lại sẽ được tách ra
bằng bộ tách kênh WDM. Sau đó, những tín hiệu trong mỗi kênh bước sóng sẽ được
chuyển sang miền điện qua bộ tách sóng quang – O/E. Khi đó, một kênh bước sóng có
thể tương đương với truyền dẫn một sợi quang đơn mode trong mạng SDH.
Trong hình thức truyền dẫn hai chiều một sợi quang, các kênh bước sóng có thể
sử dụng cho cả hai hướng đi và về hoặc có thể cho cả hình thức một chiều hai sợi
quang
Ưu điểm của cấu trúc WDM điểm - điểm là cho phép tăng độ rộng băng thông
nhờ truyền được nhiều kênh với chi phí thấp.
Tuy nhiên, hạn chế của cấu trúc này là băng tần của mỗi kênh bước sóng không
được sử dụng hiệu quả vì hạn chế tốc độ của các thiết bị điện tử làm gây ra hiện tượng
nghẽn cổ chai điện - quang. Đồng thời độ linh hoạt của cấu trúc mạng này không cao
do các kết nối chỉ sử dụng một bước sóng cố định
2.2.2. Cấu trúc mạng WDM có định tuyến bước sóng quang
Công nghệ khả thi cho cấu trúc này là các bộ định tuyến bước sóng trong miền
quang, hiện nay nhiều kiểu bộ định tuyến khác nhau đã có mặt trên thị trường. Khả
năng thiết lập lại cấu hình đã cho phép sử dụng dung lượng băng tần đến mức tối đa.
Mạng WDM định tuyến bước sóng minh hoạ ở hình 2.4, mạng gồm có một
photonic switching fabric, bao gồm “ active switches” kết nối các liên kết sợi quang
trên topo vật lý bất kỳ. Mỗi end-user được kết nối đến một active switch thông qua liên
kết sợi quang. Kết hợp end-user và chuyển mạch tương ứng của nó được xem như là
một node mạng.
Mỗi node ( tại trạm truy nhập ) được trang bị các bộ thu phát, cả hai bộ thu và
phát có thể linh điều hướng bước sóng. Bộ phát tại một node sẽ gởi dữ liệu vào mạng
và bộ thu thu dữ liệu từ mạng.
Cấu trúc căn bản truyền thông trong mạng định tuyến bước sóng là lightpath.
Một lightpath là tất cả các kênh thông tin giữa 2 node trong mạng, và nó có thể nối
nhiều hơn một liên kết sợi quang. Node trung gian trong đường dẫn sợi quang định
tuyến lightpath trong miền quang sử dụng active switch. Node kết cuối của lightpath
truy cập lightpath có bộ phát và bộ thu nắm bắt được bước sóng mà ở đó lightpath vận
hành. Ví dụ trên hình 2.4, lightpath được thiết lập giữa node A và node C trên kênh
bước sóng λ1 , giữa B và F trên kênh bước sóng λ2 , giữa H và G trên kênh bước sóng
λ1 . Lightpath giữa A và C được định tuyến qua active switch 1,6 và 7. ( Chú ý việc sử
dụng lại bước sóng λ1 ).
Vì không có thiết bị chuyển đổi bước sóng nào, một lightpath phải có cùng
kênh bước sóng trong suốt đường truyền trong mạng. Sự ràng buộc này gọi là liên tục
bước sóng Ràng buộc này sẽ không cần thiết nếu có bộ chuyển đổi bước sóng. Ví dụ
trong hình 2.4 lightpath giữa node D và E đi qua (traverse) liên kết sợi quang từ node
D đến switch 10 là bước sóng λ1 , chuyển đổi thành λ2 tại switch 10, đi qua liên kết sợi
quang giữa switch 10 và switch 9 là bước sóng λ2 , chuyển đổi lại bước sóng λ1 tại
switch 9, và đi qua liên kết sợi quang từ switch 9 đến node E là bước sóng λ1 .
Yêu cầu cơ bản trong mạng định tuyến bước sóng quang là hai hoặc nhiều
lightpath đi qua cùng liên kết sợi quang phải có kênh bước sóng khác nhau để chúng
không gây xáo trộn cho nhau.
Hạn chế của cấu trúc này là vấn đề nghẽn cổ chai ở các nút TDM điện tử vẫn
còn tồn tại. Bên cạnh đó, một số vấn đề kĩ thuật vẫn cần được xem xét giải quyết để
hoàn thiện đối với cấu trúc này bao gồm hệ thống điều khiển cho việc thiết lập lại cấu
hình kết nối, đánh giá lưu lượng giữa các kênh WDM và giữa các sợi quang, cũng như
công nghệ chế tạo các bộ định tuyến.
Để giải quyết tốt vấn đề còn tồn tại, cấu trúc mạng WDM toàn quang được ra
đời.
Mạng toàn quang phân thành 3 lớp con: level 0, level 1, level 2. Mỗi lớp con là
một vùng toàn quang có khả năng tự hoạt động.
Level 0: Biểu diễn mạng nội hạt (LAN) có số lượng rất lớn.
Level 1: Biểu diễn mạng đô thị (MAN) lấy thành phố hay khu vực hành chính
làm đơn vị, thường có cự ly vài Km đến vài chục Km.
Level 3: Biểu diễn mạng diện rộng (WAN) là mạng đường trục trong phạm vi
quốc gia, cự ly thường vài trăm đến vài nghìn Km.
Hai đặc điểm quan trọng của sợi trong mạng này là suy hao thấp và dải thông
rộng.
Mạng phục vụ 3 lớp dịch vụ: A, B, C. Dịch vụ lớp A và B có thể là điểm nối
điểm hoặc đa điểm nối đa điểm, kết nối đơn công hay song công. Dịch vụ lớp C là
dịch vụ gói.
Hai công nghệ cho việc sử dụng dải thông của sợi quang là WDM và TDM.
Đặc điểm của mạng WDM toàn quang là khả năng định tuyến bước sóng. Định tuyến
cung cấp một đường truyền ánh sáng trong suốt giữa các đầu cuối mạng. Một đường
truyền ánh sáng là đường mà một tín hiệu quang trong mạng từ nguồn đến đích có thể
bao gồm sự thay đổi bước sóng toàn quang. Một đường truyền không có sự thay đổi
bước sóng. Sự trong suốt này cung cấp cách đơn giản nhất cho các user không đồng
nhất chia sẻ tài nguyên.
2
Đường quang
1 3
A C
Nút đầu cuối- chuyển Nút định
mạch ATM tuyến
TOPO VẬT LÝ
Hình 2.6 : Mạng WDM gồm nhiều nút định tuyến kết nối bằng các cặp liên kết sợi
quang điểm nối điểm. Các nút định tuyến gắn với các nút đầu cuối hình
thành các nút nguồn và đích cho lưu lượng trong mạng.
l1l2 l1 l1l2
l1 l1
l2 l1
Chuyển mạch quang
l1 l1 l1l2
l1l2
l2
l2
l2
Chuyển mạch quang
l1
l1l2 l2 l1l2
l2
l2
Tách bước sóng Ghép bước sóng
Hình 2.7 : Cấu trúc của bộ định tuyến cấu hình lại. Bộ định tuyến có thể chuyển mạch
mỗi bước sóng ở ngõ vào độc lập với các bước sóng khác.
IP
ATM ATM
SONET SONET
a) c)
ATM IP
switch router
SONET IP
SONET network router
network ATM network
ATM ATM IP
switch
b) switch d) router
Do đó, tổng quát, gói IP được đóng gói thành những cell ATM, sau đó, lần lượt
được bao bọc trong những khung SONET/SDH; những khung STS này chạy xuyên
qua lớp quang sử dụng WDM (ghép kênh theo bước sóng).
Chúng ta cũng đã hiểu rằng cả mạng SONET và ATM đều có cấu trúc lớp của
riêng nó. Một mạng IP cũng có cấu trúc lớp của riêng nó. Do đó, chúng ta có thể phát
hiện ra chi tiết của cấu trúc lớp của toàn bộ giao thức mạng bởi bao gồm những lớp
của mạng SONET, ATM và IP trong hình 2.9 [11].
Network layer
ATM layer
IP
Path layer
ATM
Line layer
SONET
Section layer
Physical layer
Hình 2.9 : Cấu trúc phân lớp mạng IP over ATM over SONET
Khi lưu lượng trong mạng thông tin quang tăng lên, nó cũng làm tăng ước
mong sử dụng IP trực tiếp qua SONET.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tập trung vào việc thiết kế lớp
quang, là lớp cung cấp các đường nối tốc độ cao, thông qua các lightpath.
2.7. Lớp quang
2.7.1. Định nghĩa
ITU-T đã giới thiệu một lớp mới cho mạng viễn thông, là lớp quang. Cấu trúc
lớp của một mạng hiện đại, bao gồm một lớp quang, được trình bày ở hình 14.21. Hình
14.21a và b đưa đến một cái nhìn chung [1], trong khi hình 14.21c kết hợp cả cái nhìn
vật lý và logic để cho thấy lớp SONET được đặt như thế nào với lớp quang và sự kết
nối giữa những điểm của chúng.
Về mặt vật lý, đường truyền WDM là hệ thống điểm nối điểm, nối các thành
phần SONET. Do đó, WDM là một lớp vật lý mà chuyển những khung SONET không
tác động đến overhead SONET.
Có thể hiểu được nếu như vào lúc này bạn đang tự hỏi tại sao chúng ta cần một
lớp quang, đặc biệt là tất cả những gì chúng ta nói cho đến giờ đều nhằm thuyết phục
bạn rằng hầu hết sự truyền dẫn hiện nay đều qua cáp quang. Hãy làm rõ ý này : Truyền
dẫn vật lý trong SONET, ATM và IP được thực hiện bởi hệ thống truyền thông cáp
quang mà chúng ta đang thảo luận. Cấu trúc logic của mạng cáp quang này, tuy thế,
không bao gồm một lớp quang, như hình 2.8c trình bày.
Applications
SONET Optical
Connections SONET layer
Lightpaths
Optical layer
c)
a)
Optical layer
b)
Hình 2.10. Cấu trúc phân lớp của mạng fiber-optic trên lớp quang
a) IP over ATM over SONET over Optical layer
b) Network layers immediately over Optical layer
c) SONET layer over an Optical layer
Mặc dù môi trường truyền dẫn cho mạng hiện đại là cáp quang, phần lớn thiết
bị đã cài đặt và bộ ghép kênh xen/rớt vẫn là điện tử. Đó là lý do tại sao chúng ta xem
những mạng này là thế hệ mạng cáp quang đầu tiên. Lớp quang mới này được thiết lập
với thế hệ mạng quang thứ hai. Lớp quang này phục vụ không chỉ như một môi trường
truyền dẫn, mà còn mang lại tất cả những chức năng và dịch vụ đòi hỏi bởi một khái
niệm lớp.
Thế hệ mạng cáp quang thứ hai cung cấp không chỉ kết nối quang điểm nối
điểm mà còn định tuyến và chức năng add/drop (xen/rớt) trong miền quang. Từ khi có
mạng WDM, tất cả các chức năng được kết hợp với kênh bước sóng.
Lý do chúng ta cần một lớp nữa với chức năng và dịch vụ giống như những lớp
đã tồn tại như SONET hoặc ATM là mỗi lớp mạng – Quang, SONET, ATM, IP…-
hoạt động có hiệu quả trong phạm vi bit của nó. Truyền dẫn hàng terabit/s bao gồm
nhiều kênh bước sóng, mỗi kênh bước sóng gồm có nhiều luồng số liệu nhỏ được tạo
bởi công nghệ TDM. Nó có hiệu quả hơn với việc giao cho lớp quang hoạt động ở
mức Tbit/s, mà không bao gồm truyền mức Mbit/s, nơi mà lớp quang hoạt động không
hiệu quả. Ngoài ra, SONET được thiết kế để dòng dữ liệu hoạt động hiệu quả nhất ở
mức Mbit/s, nhưng không hoạt động hiệu quả ở tốc độ Tbit/s. Mong muốn tối ưu hoạt
động của mỗi lớp là động lực cơ bản trong sự phát triển của khái niệm cấu trúc lớp
mạng thông tin quang [11].
Cấu trúc lớp trên hình 2.10a hoạt động hiện nay tốt nhưng nó có một hạn chế cố
hữu : Càng nhiều số lượng giao diện lớp trong truyền dẫn, mạng càng trở nên phức tạp.
Có nghĩa là giảm sự tin cậy và giá thành cao. Tuy vậy, sự phát triển của mạng thông
tin quang ngày nay cho phép nhân viên mạng thực hiện SONET, ATM, IP, FDDI…
trên một mạng quang chung, có nghĩa là tất cả những lớp được đề cập trên được đặt ở
trên một lớp quang, như hình 2.10b mô tả.
2.7.2. Các đường quang (Lightpaths)
Lớp quang cung cấp lightpath đến lớp cao hơn [11]. Lightpath là một kênh
thông tin quang tạm thời được thiết lập trên mạng. Ngoài ra, nó cũng có nghĩa cung
cấp đường truyền end-to-end xuyên qua một mạng quang. Sử dụng lightpath, có thể
truyền dữ liệu dùng bước sóng đơn hoặc thậm chí sử dụng lại bước sóng (xem hình
2.6). Tính linh hoạt của lightpath có thể làm cho lớp quang cung cấp sự sử dụng đầy
đủ dải thông của mạng.
Nhìn lại hình 2.10 lần nữa, chú ý rằng ATM hay LAN – hoặc bất kỳ một lớp
mạng khác, có thể đặt ở phía trên lớp mạng mà không cần dùng lớp xen vào.
2.7.3. Dịch vụ
- Cài đặt lightpath là một kiểu dịch vụ đầu tiên mà lớp quang cung cấp cho
lớp trên. Thiết lập lightpath có nghĩa là thiết lập kết nối ở giữa tất cả người dùng đầu
cuối trong toàn bộ mạng. Chúng ta có thể đưa ra một sự tương tự với PSTN (mạng
điện thoại chuyển mạch công cộng) là thiết lập lightpath trong mạng thông tin quang
giống như thiết lập kết nối vật lý bên trong chuyển mạch mạch PSTN. Thiết lập
lightpath hoàn thành lúc có yêu cầu của người dùng và kết nối kết thúc khi cuộc đàm
thoại xong, một hành động giống như trong hoạt động PSTN, nơi mà kết nối giữa
người gọi và người bị gọi được thiết lập lúc có yêu cầu của người gọi và kết thúc bởi
sự đồng ý chung.
Lightpath thường được kết hợp với bước sóng đơn trong hệ thống thông tin
quang WDM, một kênh bước sóng riêng lẻ tiêu biểu có tốc độ bit cao (2,5 Gbit/s). Bởi
vậy, lightpath biểu thị toàn bộ dải thông của lớp trên.
- Kiểu dịch vụ thứ hai mà lớp quang cung cấp là thiết lập mạch ảo. Mạch ảo
là kết nối chuyển mạch gói giữa những điểm. Sự cần thiết dùng mạch ảo có thể được
hiểu qua việc xét ví dụ : Giả sử rằng băng thông của đường truyền là 2,5 Gbit/s, điển
hình của kênh bước sóng đơn ngày nay; tuy vậy, bạn chỉ cần 155 Mbit/s. Không có
mạch ảo, bạn sẽ chiếm giữ toàn bộ đường truyền, một cách không hiệu quả để sử dụng
khả năng của mạng.
Chia nhỏ toàn bộ dải thông thành những phần nhỏ hơn, một lớp quang sử dụng
công nghệ OTDM (ghép kênh quang theo thời gian).Trở lại với ví dụ trên, dữ liệu sẽ
được truyền giữa 2 điểm với tập hợp những gói truyền với tốc độ 155 Mbit/s. Luồng
này được ghép kênh quang theo thời gian với những dữ liệu khác, do đó tốc độ của
toàn bộ kênh là 2,5 Gbit/s. Điều này cho phép người thiết kế mạng làm đầy toàn bộ
băng thông của đường truyền với những phần nhỏ hơn. Nhưng ngày nay mạng hoạt
động bằng với tốc độ truyền nếu nhưcó một chuyển mạch cá nhân. Do đó, công nghệ
này được gọi là “virtual circuit” (mạch ảo).
- Kiểu dịch vụ thứ ba, mạng quang cung cấp đến lớp trên dịch vụ datagram
(gói dữ liệu) - đưa đến truyền dẫn những gói dữ liệu nhỏ mà không thiết lập kết nối
trước khi truyền dẫn thật sự.
2.7.4. Cấu trúc của lớp quang
Tất cả những lớp mạng SONET, ATM, IP… đều chứa nhiều lớp con. Lớp
quang cũng không ngoại lệ và cấu trúc của nó được trình bày trên hình 2.11.
Chúng ta sẽ xem xét những đoạn “nằm ngang” của hệ thống WDM. Từ quan
điểm này, toàn bộ mạng được chia nhỏ thành những đoạn giữa hai điểm WDM kế
nhau và/hoặc một điểm WDM và một điểm khuếch đại quang. Mỗi điểm có một cấu
trúc lớp riêng, được trình bày trên hình 2.11. Hãy xem xét cấu trúc này [11] :
Optical Transmission Section layer (lớp đoạn truyền dẫn quang), được mô tả
như Amplifier layer (lớp khuếch đại), trong hình 2.11, có tại mỗi điểm và cung cấp
chức năng khuếch đại cho lớp trên.
Lớp đoạn ghép kênh quang ( Optical Multiplex Section layer ) đặc trưng cho
kết nối điểm nối điểm giữa những điểm WDM dọc theo lộ trình của đường quang).
Lớp đoạn kênh ( Channel Section layer ), cũng được gọi là lớp đoạn kênh quang
( Optical Channel Section layer ) hoặc lớp đường quang ( Lightpath layer ) – có nhiệm
vụ định tuyến đường quang end-to-end xuyên qua toàn bộ mạng.
Xem lại hình 2.8 và 2.11, mạng IP được chạy trên mạng ATM, và mạng ATM
chạy trên SONET, như hình 2.8c trình bày. Cấu trúc lớp này của toàn bộ mạng được
vẽ chi tiết trên hình 2.9, nơi trình bày tất cả lớp con của lớp mạng. Hình 2.10 tiếp tục
phát triển sự trình bày trên hình 2.8 bằng việc chỉ ra tất cả các lớp chủ yếu, bao gồm cả
lớp quang. Có thể dễ dàng vẽ chi tiết cấu trúc của mạng thông tin quang như hình 2.9
bởi việc kết hợp cả hình 2.9 và 2.14. Chú ý rằng lớp quang phục vụ như lớp vật lý
trong mạng SONET.
Mô hình của lớp quang được giới thiệu bởi ITU-T và được mô tả như trên
không phản ánh tất cả chức năng kết hợp với thế hệ mạng quang thứ hai. Đặc biệt,
trong broadcast (băng rộng) và mạng thông tin quang, chức năng chuyển mạch gói
được hoạt động bởi Media-Access Control layer (lớp điều khiển truy nhập truyền
thông) ; tuy vậy, lớp này không được trình bày trên hình 2.11. Trong mạng định tuyến
bước sóng (wavelength-routing network) ( xem phần 2.2.2), chức năng chuyển mạch
gói được hoạt động bởi Network layer (lớp mạng) - không được trình bày trên hình
2.11. Mô hình của một lớp quang cần được phát triển thêm nữa như mạng thông tin
quang tiến triển. Hãy nhìn vào những tin tức công bố thương mại về sự phát triển mới
nhất các lớp quang, hứa hẹn sẽ nổi lên công nghệ trong quang cảnh truyền thông tin
quang.
Điểm nút trung tâm có thể là 1 thiết bị thụ động hay tích cực. Nếu sử dụng 1
thiết bị tích cực, từ điểm nút trung tâm có thể kiểm soát tất cả các đường định tuyến
thông tin trong mạng. Nếu sử dụng 1 thiết bị thụ động, thì tại điểm nút trung tâm phải
đặt bộ tách công suất để chia các tín hiệu quang đầu vào đến tất cả các đường ngõ ra
để đi đến các trạm phụ thuộc.
Ưu điểm: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lí tổng hợp băng tần của mạng.
Nhược điểm: Phụ thuộc vào điểm nút trung tâm, nên để đạt được hiệu quả sử
dụng mạng đòi hỏi điểm nút trung tâm phải có khả năng xử lí rất mạnh để lưu thoát
các dịch vụ thông tin giữa điểm nút phụ thuộc với điểm nút trung tâm và giữa các điểm
nút phụ thuộc với nhau.
2.8.2.c. Hình vòng
Các điểm nút mạng liên tiếp nhau được kết nối bằng những liên kết điểm nối
điểm và tạo thành một vòng kín.
Cấu trúc tương tự như topo hình tuyến nhưng hai điểm nút đầu cuối đều dùng
thiết bị OADM và dùng đường dây cáp quang để nối chúng lại với nhau sẽ tạo thành
topo hình vòng.
Trong topo hình vòng, giữa hai điểm bất kì của mạng đều có hai định tuyến dài
ngắn khác nhau, truyền dẫn ngược chiều nhau, điều này tạo nhiều thuận lợi trong vấn
đề bảo vệ mạng.
Dữ liệu di chuyển trong mạng vòng dưới dạng gói từ nút mạng này sang nút
mạng khác. Tại mỗi nút mạng là một thiết bị tích cực có khả năng nhận ra địa chỉ của
các gói dữ liệu để nhận đúng thông tin gửi cho nó hay cho nút mạng khác.
Ưu điểm: Có tính năng bảo vệ tốt, thực hiện đơn giản, hoạt động hiệu quả, có
thể ứng dụng trong mọi trường hợp.
2.8.2.d. Hình cây
Mạng hình cây là kết hợp giữa topo hình sao với topo hình tuyến, có thể xem
như là sự mở rộng của topo hình sao.
2.8.2.e. Hình lưới
Giữa tất cả các điểm nút của mạng ít nhất có 2 đường dây kết nối vật lý khác
nhau, nếu kết nối không có dạng hình vòng sẽ là hình lưới. Nếu như cứ 2 trong tất cả
các điểm nút có kết nối vật lý với nhau thì sẽ tạo ra mạng hình lưới lí tưởng.
Các điểm nút mạng thường là bộ OXC.
3 Station
Station 1
Optical coupler
Station 2
Fiber optic trunk
lines i
Station
Station N
Station
3 Station
2
Station 1
i Station
Station 1
Có liên quan trực tiếp với việc định Có liên quan đến khái niệm kênh
tuyến khi đặt đường cáp quang, tuy nhiên quang với sự phân bố dịch vụ giữa các
topo vật lý không thể theo kịp sự phát điểm nút, có thể thay đổi topo logic từ
triển của dịch vụ vì topo vật lý có thể chương trình phần mềm nên có thể xem
xem là topo “cứng”. topo logic là topo “mềm”.
Cơ sở của topo vật lý là kết nối vật lý Cơ sở thiết kế của topo logic là quan
giữa các điểm nút. hệ kết nối logic giữa các điểm nút.
Phản ánh quan hệ kết nối trong lớp Phản ánh các kết nối trong lớp kênh
vật lý, mức độ phức tạp của topo vật lý quang của mạng. Chất lượng truyền dẫn
phụ thuộc vào số lượng đầu dây của điểm và xử lí, độ phức tạp của kết nối logic
nút mạng. phụ thuộc vào số lượng đầu dây của điểm
nút mạng, số lượng bước sóng ghép kênh,
chức năng và kết cấu của mạng.
Mục đích thiết kế topo vật lý là để Mục đích thiết kế topo logic là để
đáp ứng nhu cầu dịch vụ mạng, do đó yêu nâng cao khả năng vận hành và kinh
cầu thiết kế các kết nối sao cho tối ưu doanh của mạng, tối ưu hoá chức năng
giữa các điểm nút mạng. mạng của lớp kênh quang dựa trên topo
vật lý.
Hình 2.15 trình bày topo logic ứng với topo vật lý trong hình 2.6, topo logic này
tương ứng với một tập các đường quang trong hình 2.6. Topo logic là một đồ thị với
các nút tương ứng với các nút đầu cuối trong mạng gốc, và một cạnh có hướng từ nút
B đến nút A nếu đường quang được thiết lập từ nút B đến nút A. Cấp độ vật lý
(physical degree) của một nút định tuyến là số lượng các nút định tuyến kết nối trực
tiếp với nó bằng các liên kết sợi quang (ví dụ cấp độ vật lý của tất cả các nút định
tuyến trong hình 2.6 là 2). Cấp độ logic đi (logical out-degree) của một nút đầu cuối là
số đường quang bắt nguồn từ nút đó và cấp độ logic đến (logical in-degree) của một
nút đầu cuối là số đường quang kết cuối tại nút đó, ví dụ, trong hình 2.15, cấp độ logic
GVHD : ThS Ngô Thanh Ngọc 27 SVTH : Trần Văn Sang
Chương 2 : Giới thiệu về mạng WDM
đi và cấp độ logic đến của mỗi nút đầu cuối đều là 1. Giả sử rằng mỗi nút định tuyến
kết nối với một nút đầu cuối duy nhất và ngược lại, thì đơn giản ta chỉ nói đến cấp độ
logic và cấp độ vật lý của mỗi nút.
A C
Hình 2.15 : Topo logic cho mạng ở hình 2.6. Các cạnh có hướng trong topo này tượng
trưng cho các đường quang giữa các nút đầu cuối tương ứng trong hình 2.6
2.9. Ứng dụng của WDM trong mạng viễn thông ngày nay
Ø Mặc dù đã phát triển trong những năm gần đây nhưng công nghệ WDM
( DWDM ) vẫn là một trong những chủ đề mang tính thời sự của lĩnh vực hạ
tầng cơ sở mạng.
Ø WDM không chỉ được coi là một phương tiện nâng dung lượng cáp quang
mà còn là một công nghệ ứng dụng trong mạng đường trục đa dịch vụ và
các mạng truy nhập di động vì nó có khả năng liên kết với các công nghệ
mới như ATM, IP, ADSL.
Ø Mạng WDM ngày càng được sử dụng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu mạng
của khu vực và những nơi tập trung dân cư và không chỉ để xây dựng các
mạng hiện tại và cung cấp độ bảo mật và tính khả dụng cao.
Ø Tuynh iên,n¿usosánhvÛicácm¡ngcápð°Ýngdà itruyÁn th Ñngth ìcông
tác triển khai trong khu vực đông dân cư lại có những thách thức riêng. Ví
dụ, đặc điểm năng động của các khu vực dân cư thành thị đòi hỏi mạng vật
lý phải đáp ứng nhanh chóng những thay đổi về nhu cầu hoặc lưu lượng như
bổ sung hoặc bớt đi các dữ liệu ở mỗi nút, trong đó chi phí lắp đặt và bảo
dưỡng khi thiết kế mạng WDM là một vấn đề cần quan tâm.
Ø Ở một khía cạnh khác, tính linh hoạt và dung lượng lớn đã khiến cho WDM
trở thành công nghệ lí tưởng để củng cố cho sự phát triển của các mạng dịch
vụ “ thế hệ tiếp theo ” ( mạng NGN ), cho phép WDM đáp ứng yêu cầu lưu
lượng từ các mạng khác nhau, dù là cố định hay di động, dù các dịch vụ
ngày càng phức tạp, số người sử dụng ngày càng vượt trội.
Ø Mạng WDM chỉ là một phần trong bức tranh toàn cảnh về thông tin quang
hiện nay, một trong những mảng phát triển nhất là SDH đi kèm với các hệ
thống đã được ITU xác nhận.
Ø Trên thế giới gần đây, Mỹ, nơi thông tin quang phát triển mạnh mẽ, là quốc
gia đầu tiên triển khai mạng WDM, và ngày càng được ứng dụng rộng rãi
trên thị trường Châu Âu, Châu Á và Châu Mĩ La Tinh.
Ø Xây dựng mạng WDM sẽ đưa vào thiết bị kết nối chéo quang OXC và thiết
bị ghép/tách kênh quang OADM và biến đổi bước sóng quang trên điểm nút
nối chéo nhau của mạng đường trục, từ đó hình thành kênh bước sóng ảo từ
đầu đến cuối.
Ø Tại Việt Nam, SDH OFC là mục tiêu phát triển của các nhà khai thác và sẽ
được mở rộng trong cả nước cho đến năm 2010 vì nhu cầu về dung lượng và
tốc độ của dịch vụ nói chung chưa cao lắm. Khi nào đòi hỏi về dung lượng
đường truyền trên tuyến đường trục cao hơn thì giải pháp mạng WDM có
thể là một giải pháp thích hợp.
CHƯƠNG 3
BÀI TOÁN TÁI CẤU HÌNH TOPO LOGIC
Bài toán tái cấu hình là bài toán tối ưu có ràng buộc. Tái cấu hình được thực
hiện khi có sự thay đổi traffic yêu cầu, không phải là sự không thích hợp của thiết bị
cũng không phải là sự thay đổi trong topo vật lý.Trong chương này tiến hành phân tích
bài toán tái cấu hình và các công thức sử dụng trong bài toán.
3.1. Các công thức sử dụng trong bài toán thiết kế topo logic
Bài toán thiết kế topo logic được đặt ra nhằm xác định các đường nối logic cần thiết để
tạo thành topo logic tối ưu, có khả năng đáp ứng yêu cầu truyền thông tin tốt nhất
trong điều kiện ràng buộc về số lượng bước sóng và khả năng phần cứng của mạng.
3.1.1. Thông số đầu vào
Ø Topo vật lý : topo của mạng cáp quang cụ thể
Ø Traffic yêu cầu : nhu cầu kết nối giữa các node trong mạng
3.1.2. Hàm mục tiêu
Trong đề tài này, hướng đến mục tiêu tối thiểu số hop trung bình
å åt .h sd sd
Havg = s d
å åt s d
sd
Với
Havg : số hop logic trung bình mà luồng traffic phải vượt khi truyền tử nguồn
đến đích
tsd : lượng traffic cần truyền từ nguồn s đến đích d
hsd : số hop mà traffic phải vượt qua khi truyền từ nguồn s đến đích d
å åt .h sd sd
Havg = s d
å åt s d
sd
åå V '
s d
sd -Vsd £NoChange
Với
Bài toán lúc này trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Thay vì giải với hai mục tiêu
bài toán lúc này chỉ giải với một mục tiêu là tối thiểu là số hop trung bình với các ràng
buộc.
3.2.2. Chuyển tiếp cấu hình từ topo logic cũ sang topo logic mới
Tập hợp các lightpath trong topo logic mới được xác định bởi
Lnew ={linew | i =1, 2,....n} . Cho rằng các lightpath mà được sử dụng cả hai topo cũ và mới
sẽ không bị thay đổi. Các lightpath cũ mà sử dụng bất kỳ tài nguyên như bước sóng,
bộ thu phát gây xung đột với topo mới sẽ bị xoá bỏ ( torn down ) để thiết lập lightpath
mới. Xung đột giữa topo cũ và topo mới được trình bày rõ trong biểu đồ phụ trợ
( auxiliary grap )
(b) Lnew
Ea ={(linew , l old
j ) | nếu li
new
ÎLnew xung đột với l old
j ÎLold } Va =Lold ÈLnew
Chú ý rằng mối xung đột này có lẽ là kết quả xung đột về bước song và bộ thu
phát. Hơn nữa mỗi một lightpath mới có xung đột với các lightpath cũ. ( xem hình vẽ ).
Bởi vì chuyển tiếp tái cấu hình ( reconfiguration transiton ) có lẽ là nguyên
nhân gây ra chỉ số trễ và mất gói tin, nó cũng là điểm cốt lõi để thông báo hiệu quả
phân bố lưu lượng yêu cầu của mạng trong suốt quá trình tái cấu hình. Giả đinh rằng
không có thất thoát lưu lượng, các lưu lượng trên lightpath bị xóa bỏ sẽ được định
tuyến lại đến đường khác bằng cách sử dụng thuật toán tìm đường đi ngắn nhất
( shortest path algorithm ). Việc thiết lập lightpath mới sẽ được dành cho lần thiết lập
sau. Chỉ số delay giữa cặp nguồn – đích ( s-d ) được đo bằng số lightpath ( hoặc số
hop ) từ node s đến node d.
Các kí hiệu
· tsd : Lượng traffic cần truyền từ nguồn s đến đích d
· Lold : Topo logic hiện hành
· Lnew : Topo logic mới
· linew : lightpath trong topo logic cũ
· H T ( s, d ) : số hop logic nhỏ nhất mà một luồng traffic phải vượt qua khi
i
å å t .H ( s, d ) sd Ti
· α ( S ) : số hop trung bình của dãy chuyển tiếp α ( S ) = s d
n.å åt sd
s d
Ø Thông số đầu ra : α ( S )
Ø Các bước thực hiện
Bước 1 : T=Lold . Tính ma trận HT dùng thuật toán tìm đường đi ngắn nhất Ford
Bước 2 : Tính số hop logic mà luồng traffic vượt qua từ node s đến node d
H a =ååtsd .H Ti ( s, d )
s d
Bước 3 : Tạo vòng lặp cho i chạy từ 1 đến n ( với n là số lightpath mới xung đột
với lightpath cũ ). Thực hiện lần lượt theo trình tự sau
v Đặt l =lSC [i ] , cộng lightpath l vào topo hiện hành T , xóa ( remove )
N (l ) các lightpath cũ mà có xung đột với lightpath l
CHƯƠNG 4
THUẬT TOÁN DI TRUYỀN GA
( GENERIC ALGORITHM )
nhiều lần chọn lọc qua nhiều thế hệ, thế hệ cuối cùng sẽ là giống cây, con vật mong
muốn. Vấn đề đặt ra là chi phí thực hiện và kết quả đạt được. Thông thường kết quả
đạt được tương đối tốt, cũng có thể là tốt nhất, đặc biệt đối với những vấn đề nan giải,
các thuật toán thông thường không thể giải quyết được.
Ban đầu, ta sẽ phát sinh một số lượng lớn, giới hạn các cá thể có gen ngẫu nhiên
– nghĩa là phát sinh một tập hợp các chuỗi bit ngẫu nhiên. Tập các cá thể này được gọi
là quần thể ban đầu (initial population). Sau đó, dựa trên một hàm nào đó, ta sẽ xác
định được một giá trị gọi là độ thích nghi - Fitness. Giá trị này, để đơn giản có thể tạm
hiểu chính là độ "tốt" của lời giải hay độ cao trong tìm kiếm theo kiểu leo đồi. Vì phát
sinh ngẫu nhiên nên độ "tốt" của lời giải hay tính thích nghi của các cá thể trong quần
thể ban đầu là không xác định.
Để cải thiện tính thích nghi của quần thể, người ta tìm cách tạo ra quần thể mới.
Có hai thao tác thực hiện trên thế hệ hiện tại để tạo ra một thế hệ khác với độ thích
nghi tốt hơn.
Thao tác đầu tiên là sao chép nguyên mẫu một nhóm các cá thể tốt từ thế hệ
trước rồi đưa sang thế hệ sau (selection). Thao tác này đảm bảo độ thích nghi của thế
hệ sau luôn được giữ ở một mức độ hợp lý. Các cá thể được chọn thông thường là các
cá thể có độ thích nghi cao nhất.
Thao tác thứ hai là tạo các cá thể mới bằng cách thực hiện các thao tác sinh sản
trên một số cá thể được chọn từ thế hệ trước – thông thường cũng là những cá thể có
độ thích nghi cao. Có hai loại thao tác sinh sản : một là lai tạo (crossover), hai là đột
biến (mutation). Trong thao tác lai tạo, từ gen của hai cá thể được chọn trong thế hệ
trước sẽ được phối hợp với nhau (theo một số quy tắc nào đó) để tạo thành hai gen mới.
Thao tác chọn lọc và lai tạo giúp tạo ra thế hệ sau. Tuy nhiên, nhiều khi do thế
hệ khởi tạo ban đầu có đặc tính chưa phong phú và chưa phù hợp nên các cá thể không
rải đều được hết không gian của bài toán . Từ đó, khó có thể tìm ra lời giải tối ưu cho
bài toán. Thao tác đột biến sẽ giúp giải quyết được vấn đề này. Đó là sự biến đổi ngẫu
nhiên một hoặc nhiều thành phần gen của một cá thể ở thế hệ trước tạo ra một cá thể
hoàn toàn mới ở thế thệ sau. Nhưng thao tác này chỉ được phép xảy ra với tần suất rất
thấp (thường dưới 0.1), vì thao tác này có thể gây xáo trộn và làm mất đi những cá thể
đã chọn lọc và lai tạo có tính thích nghi cao, dẫn đến thuật toán không còn hiệu quả.
Thế hệ mới được tạo ra lại được xử lý như thế hệ trước (xác định độ thích nghi
và tạo thế hệ mới) cho đến khi có một cá thể đạt được giải pháp mong muốn hoặc đạt
đến thời gian giới hạn.
0 0 0 1 1 1 0 1 0
Mỗi kiểu gen (một NST cụ thể) biểu thị một lời giải có thể của bài toán; một
quá trình tiến hóa được thực hiện trên một quần thể (một tập hợp NST) tương đương
với sự tìm kiếm trong một không gian các lời giải có thể. Sự tìm kiếm này đòi hỏi có
sự cân bằng giữa hai mục đích: tìm lời giải tốt nhất và khám phá không gian tìm kiếm.
Thuật toán di truyền cổ điển tìm kiếm theo nhiều hướng bằng cách duy trì một tập lời
giải có thể, khuyến khích sự hình thành và trao đổi thông tin giữa các hướng. Tập hợp
các lời giải trải qua các quá trình tiến hóa và cuối cùng cho ta một tập hợp các lời giải
đủ tốt tùy theo yêu cầu. Tại mỗi thế hệ, các lời giải tương đối tốt được tái sinh, trong
đó các lời giải tương đối tồi bị loại bỏ. Để phân biệt giữa các lời giải khác nhau, người
ta dùng một hàm gọi là hàm thích nghi để đánh giá độ tốt, xấu của từng lời giải, hàm
này đóng vai trò của một môi trường sống trong thuyết tiến hóa.
GA cổ điển được J. H Holland giới thiệu để giải bài toán tối ưu: max {f(x) / x Î
M}, trong đó M là một miền trong không gian n-chiều, f(x) > 0 với mọi x ÎM. Cấu
trúc của GA cổ điển như sau:
Procedure GA
Begin
T=0
Khởi tạo P(t)
Đánh giá P(t)
While ( not( điều kiện dừng )) do
Begin
T=T+1
Chọn P(t) từ P(t-1)
Thay đổi P(t)
Đánh giá P(t)
End
End.
Các quá trình tiến hóa được diễn ra trong vòng lặp While, tại thế hệ thứ t, thuật
toán duy trì một tập lời giải P(t) = {xt1, …, xtn}. Mỗi lời giải xti được đánh giá “độ
thích nghi”. Một tập lời giải mới được xây dựng bằng cách “chọn lọc” các cá thể thích
nghi hơn, ta được một tập lời giải trung gian. Tiếp theo, một số cá thể trong tập lời giải
này được biến đổi bằng phương pháp “lai ghép” và “đột biến” để tạo thành các lời giải
mới cho thế hệ t + 1.
Trong ví dụ minh họa bằng hình 9.18, ta thấy tại thế hệ thứ n ta có một lời giải có
độ thích nghi rất thấp (2), và vì vậy, nó không được sử dụng trong quá trình tái sản
xuất. Thay vào đó, lời giải có độ thích nghi cao nhất (13) sẽ được nhân đôi và đưa
vào quá trình tái sản xuất.
4.3. Các tính chất đặc thù của thuật toán di truyền
· GA lập luận mang tính chất ngẫu nhiên, thay vì xác định như toán học giải
tích.
· GA duyệt xét toàn bộ các giải pháp, sau đó chọn lấy giải pháp tương đối tốt
nhất dựa trên hệ số thích nghi.
· GA không để ý đến chi tiết vấn đề, trái lại chỉ chú ý đến giải pháp, đặc biệt
là dãy số tương trưng cho giải pháp.
· GA rất thích hợp cho việc tìm kiếm giải đáp các vấn đề, hay tìm điều kiện
tối ưu cho việc điều hành, và phân nhóm những giải pháp có được.
4.4. Các bước quan trọng trong việc áp dụng thuật toán di truyền
Để giải quyết vấn đề (bài toán) bằng thuật toán di truyền, chúng ta cần thực
hiện bảy bước quan trọng sau đây:
- Bước 1: chọn mô hình cho giải pháp của vấn đề: chọn một số tượng trưng cho
toàn bộ các giải pháp (quần thể) có thể có cho vấn đề.
- Bước 2: chỉ định cho mỗi giải pháp (cá thể) một ký hiệu. Ký hiệu có thể là
một dãy các số 0, 1 thuộc hệ nhị phân, hay dãy các số thập phân, dãy các chữ hay
hỗn hợp của số và chữ. Ký hiệu đơn giản nhất và thường dùng nhất là dãy các số
nhị phân 0, 1.
- Bước 3: tìm hàm số thích nghi cho vấn đề và tính hệ số thích nghi cho từng
giải pháp (lời giải)
- Bước 4: dựa trên hệ số thích nghi của các giải pháp để thực hiện sự tạo sinh
(reproduction) và biến hóa các giải pháp. Các phương thức biến hóa bao gồm: lai
ghép (crossover), đột biến (mutation).
- Bước 5: tính các hệ số thích nghi cho các giải pháp mới và loại bỏ những giải
pháp kém nhất để chỉ còn giữ lại một số nhất định các giải pháp.
- Bước 6: nếu chưa tìm được giải pháp tối ưu hay tương đối khá nhất hay chưa
hết kỳ hạn ấn định, trở lại bước thứ tư để tìm giải pháp mới.
- Bước 7: tìm được giải pháp tối ưu hoặc nếu thời gian cho phép đã chấm dứt
thì kết thúc thuật toán và báo cáo kết quả tìm được.
Phép chọn lọc là một quá trình trong đó cá thể được chọn để tham gia vào
các pha tiếp theo của quá trình tiến hóa. Việc chọn lựa này tùy thuộc vào độ
thích nghi của cá thể đó, nghĩa là những cá thể nào có giá trị hàm thích nghi cao
hơn sẽ có khả năng có nhiều con cháu trong thế hệ tiếp theo. Phép chọn lọc có
thể được biểu diễn dưới dạng một bánh xe xổ số Roulettle, đó là một hình tròn
trong đó mỗi cá thể trong thế hệ hiện hành chiếm một phần tương ứng với giá trị
của hàm thích nghi của nó. Các giá trị này chính là xác suất chọn lọc của mỗi cá
thể, được tính theo công thức:
pi = f(vi) / F
Trong đó: f(vi) là giá trị của hàm thích nghi của mỗi cá thể vi.
F là tổng của các giá trị thích nghi của quần thể.
Hình 4.3 sau đây minh họa bánh xe xổ số của quá trình lựa chọn. Trong hình, cá
thể 1 có xác suất chọn lọc là 25%, mỗi lần quay bánh xe xổ số nó có khả năng
được chọn là 0.25. Tương tự như vậy đối với các cá thể 2, 3, 4.
15%
25%
4
1
20%
3
37.5%
2
Ví dụ: Cha 1 0 1 1 0 1 1 0 0
Mẹ 0 0 0 1 1 1 0 1 0
Thì việc trao đổi chéo các NST sau gen thứ 5 sẽ tạo ra hai con:
Con 1 1 0 1 1 0 1 0 1 0
Con 2 0 0 0 1 1 1 1 0 0
Sự kết hợp của các phép chọn lọc và lai tạo đôi khi làm thất những NST có
tiềm năng. Phép đột biến được đặt ra nhằm khắc phục thiếu sót trên.
Phép đột biến là sự sửa đổi một vài gen của một NST được chọn, bằng cách
thay đổi ngẫu nhiên với xác suất là tỷ lệ đột biến.
Ví dụ:
V1 1 0 1 1 0 1 0 1 0
V2 1 0 1 1 1 1 0 1 0
NST V1 được chọn để đột biến tại vị trí gen thứ năm, gen này hiện tại là 0,
sau khi đột biến sẽ trở thành 1. Khi đó NST V1 trở thành V2.
4.5.2. Các thông số của thuật toán di truyền
4.5.2.a. Kích thước quần thể ( Population size )
Kích thước quần thể chính là số lượng NST trong quần thể ( tính trong một
thế hệ ). Nếu số lượng NST là quá ít thì bằng phép lai ghép sẽ cải thiện số lượng
NST. Trong trường hợp số lượng NST ít thì chúng ta chỉ khảo sát một phần nhỏ
trong không gian tìm kiếm, ngược lại nếu số lượng NST quá lớn thì thời gian xử
lý của thuật giải di truyền tại mỗi thế hệ sẽ chậm. Theo thực nghiệm, kích thước
quần thể có giá trị từ vài chục đến vài trăm. Kích thước quẩn thể sẽ không đổi
qua từng thế hệ
4.5.2.b. Xác suất lai ghép Pc
Không phải bất kỳ NST nào sau khi qua chọn lọc cũng được lai ghép. Lai
ghép chỉ thực hiện với một xác suất nhỏ hơn 1. Xác suất lai ghép biểu diến mức
độ xảy ra thường xuyên để thực hiện việc lai ghép. Nếu không có phép lai ghép
thì cá thể con được chọn ra chính là bản sao từ cá thể cha mẹ, trong trường hợp
này thì không phải quần thể mới hoàn toàn giống với quần thể trước đó vì còn
phải phụ thuộc vào cách chọn NST để tiến hành sao chép. Nếu xác suất lai ghép
là 1 thì toàn bộ các cá thể con được tạo ra bằng phép lai ghép.
4.5.2.c. Xác suất đột biến Pm
Đột biến chỉ được thực hiện với một xác suất rất thấp ( thường nhỏ hơn 0.1 ).
Xác suất đột biến biểu diễn mức độ xảy ra thường xuyên của NST bị đột biến
tại gen đó. Nếu không có sự đột biến thì các cá thể được chọn sẽ không có sự
thay đổi nào trừ ảnh hưởng của phép lai.
4.6. Các toán tử của thuật toán di truyền
4.6.1. Toán tử chọn lọc cá thể
Toán tử chọn lọc cá thể là thao tác xử lý trong mỗi cá thể được bảo lưu cho
vòng tạo sinh tiếp sau tùy thuộc vào giá trị thích nghi của nó. Toán tử này giống như
quá trình chọn lọc tự nhiên. Giá trị thích nghi f(i) là các giá trị được tính toán xác định
và gán cho mỗi NST (f(i) là giá trị thích nghi gán cho NST thứ i), nếu NST có giá trị
thích nghi càng lớn thì khả năng được lựa chọn của nó càng lớn và NST càng được coi
là hợp lý. Hàm thích nghi là một hàm bất kỳ có thể không liên tục, dương hay phi
tuyến.
Có nhiều phương pháp chọn lọc cá thể như: Chọn bằng bánh xe Roulettle
( Roulettle wheel selection ), lựa chọn bằng phương pháp bằng phuơng pháp xếp hạng
( Rank selection )….
Ví dụ: với hai chuỗi v1, v2 và hai điểm được chọn để trao đổi chéo là 3 và 7,
ta được các NST con như sau:
v1 = ( 0 1 1| 0 0 1| 1 0 0 1 )
v2 = ( 1 1 1| 0 1 1| 0 1 0 0 )
v1’=( 0 1 1| 0 1 1| 1 0 0 1 )
v2’=( 1 1 1| 0 0 1| 0 1 0 0 )
Với cách trao đổi chéo này, cho ta chuỗi v1’ phù hợp với lược đồ S3 và lược
đồ S1 không bị loại bỏ.
4.6.2.c. Phép lai tại nhiều điểm
Một ý tưởng khác là, nếu phép lai hai điểm không thể kết hợp để tạo ra một
cá thể phù hợp với một lược đồ nào đó, thì ta có thể áp dụng phép lai nhiều điểm
được không? Người ta đã đưa ra thử nghiệm này. Tuy nhiên, phép lai nhiều điểm
rắc rối hơn, vì phải nối luân phiên giữa các đoạn tương ứng của cha, mẹ sau khi
đã cắt thành nhiều đoạn và số điểm cắt phải là số chẵn.
4.6.2.d. Phép lai tự điều chỉnh phân bố các điểm bắt chéo
Hai nhà khoa học Schaffer và Morishima đã đưa ra một thí nghiệm về phép
lai có khả năng tự điều chỉnh phân bố của các điểm bắt chéo dựa vào “sự tồn tại
của cá thể thích nghi cao nhất và sự tái kết hợp”. Ý tưởng này được thực hiện
bằng cách mã hóa bản đồ bắt chéo và gán vào biểu diễn chuỗi. Những bản đồ
này đánh dấu các điểm bắt chéo khi thực hiện các phép lai. Trong quá trình tiến
hóa, nếu cách lai tạo nào tạo ra cá thể con chất lượng xấu, cách lai tạo đó sẽ bị
loại bỏ và ngược lại. Các thí nghiệm lai tạo trên đã cho kết quả khả quan hơn so
với phương pháp trao lai tạo cổ điển.
4.6.2.e. Phép lai Segmented Crossover
Đây có thể xem là cải tiến của phép lai nhiều điểm. Trong cải tiến này, số
điểm bắt chéo không phải là một số cố định, mà là một tỉ lệ ngắt đoạn. Tỉ lệ này
xác định một đoạn gen trong chuỗi kết thúc tại một điểm bất kỳ nào đó.
Ví dụ: cho tỷ lệ ngắt đoạn s = 0,2; khi đó kể từ đầu một đoạn, khả năng kết
thúc đoạn này của mỗi bít là 0,2. Hay ta có thể hiểu rằng, số các điểm bắt
chéo của chuỗi là m/5 (m là độ dài chuỗi). Một sự khác biệt so với phép lai
nhiều điểm là số điểm bắt chéo không phải là cố định.
4.6.2.f. Phép lai đồng nhất
Phép lai này có thể được xem là sự mở rộng của phép lai một điểm, hai
điểm và nhiều điểm. Nội dung của phép lai này như sau: gọi p là xác suất mỗi
bít trên cá thể con thứ nhất lấy từ cá thể cha hoặc mẹ, bít tương ứng trên cá thể
con thứ hai sẽ lấy trên cá thể cha hoặc mẹ còn lại (ví dụ: nếu bít một của cá thể
GVHD : ThS Ngô Thanh Ngọc 46 SVTH : Trần Văn Sang
Chương 4 : Thuật toán di truyền GA
con thứ nhất lấy bít một của cá thể cha, thì bít một của con thứ hai sẽ lấy bít
một của mẹ). Sau đây là một ví dụ minh họa:
Cho hai cá thể cha, mẹ lần lượt là:
v1 = (0 1 0 0 0 1 1 0 0 1)
v2 = (1 1 0 1 1 0 0 0 1 0)
Ta có thể có cặp cá thể con như sau:
v1 = (01 11 02 01 12 11 02 01 01 02)
v2 = (12 12 01 11 01 12 01 02 12 11)
Các chỉ số 1 và 2 đều chỉ bít đó là của v1 hoặc v2
Về đánh giá ưu nhược điểm của phương pháp này, trong một công trình
nghiên cứu, Spears và De Jong đã kết luận là: “vì phép lai đồng nhất trao đổi
theo bit cho nên nó có ưu điểm là ít có nguy cơ phá vỡ các khối cơ bản, nhưng
trong một số bài toán khác, nó lại kém hiệu quả hơn phép lai hai điểm”.
4.6.2.g. Phép lai nhiều cha mẹ
Hai nhà khoa học Muhlenbein và Voigt đã đưa ra một toán tử tái kết hợp
mới được gọi là “tái kết hợp quỹ gen”, trong đó các gen của một cá thể con được
chọn một cách ngẫu nhiên từ quỹ gen của các cá thể cha, mẹ được chọn. Phép lai
này cho phép một cá thể con có thể có nhiều cha, mẹ.
Tóm lại, trong vài năm gần đây, nhiều cải tiến của phép trao đổi chéo đã xuất
hiện. Nó đã được khẳng định hơn hẳn phép trao đổi chéo cổ điển, nhưng chưa có phép
nào vượt trội hơn các phép đã công bố. Qua thử nghiệm, Eshelman đã đưa ra một kết
luận tổng quát là: mỗi loại trao đổi chéo chỉ thích hợp với một loại bài toán cụ thể nào
đó, điều này càng khẳng định thêm ý tưởng về các thuật toán di truyền có các toán tử
phụ thuộc bài toán.
4.6.3. Toán tử đột biến
Cũng giống như lai ghép, toán tử đột biến làm tăng nhanh quá trình hội tụ,
nhưng tăng một cách đột ngột, cũng có khi sẽ không gây tác dụng gì một khi không
thành công. Không ai có thể đánh giá được phương pháp đột biến nào tốt hơn, do đó
có một vài phương pháp đơn giản, cũng có vài trường hợp khá phức tạp. Người ta
thường chọn một trong những phương pháp sau :
4.6.3.a. Đảo bit
Chọn ra bit với xác suất cho trước, đảo giá trị của bit đó từ 0 thành 1 và
ngược lại
Ví dụ :
1 1 0 1 1 0 0 0 1 0
1 1 1 0 1 0 0 0 1 0
1 0 0 1 0 1 0 0 0 1
1 0 1 1 0 0 0 0 0 1
Các thao tác xử lý này được áp dụng lặp lại cho đến khi các NST con cháu
của chúng tăng trưởng tới kích cỡ mong muốn của quần thể.
4.6.3.c. Đột biến đảo ngược
Chọn hai vị trí ngẫu nhiên trong một nhiễm sắc thể và sau đó, nghịch đảo
chuỗi giữa hai vị trí này.
Ví dụ:
Nhiễm sắc thể: 938571642
Sau khi đột biến: 931758642
CHƯƠNG 5
ÁP DỤNG GA VÀO BÀI TOÁN TÁI CẤU HÌNH TOPO LOGIC
5.1. Mã hóa
Dạng topo của một mạng N node có thể được diễn tả bằng ma trận kết nối N x
N, trong đó mỗi phần tử xi,j diễn tả số đường kết nối từ node i đến node j [xem 5]
Ví dụ một topo logic của một mạng 5 node ( hình dưới ) được diễn tả dưới dạng
ma trận kết nối và chuỗi nhị phân tương ứng như sau :
1,2 1,3 1,4 1,5 2,3 2,4 2,5 3,4 3,5 4,5 2,1 3,1 3,2 4,1 4,2 4,3 5,1 5,2 5,3 5,4
0 1 1 0 1 1 0 0 1 1 0 1 0 0 1 0 1 1 0 0
Mối quan hệ khái niệm của mạng và khái niệm của thuật toán di truyền được tóm tắt
trong bảng
Bảng 5.1 : So sánh các khái niệm của mạng và khái niệm của GA
Như đã phân tích ở chương 3, bài toán tái cấu hình là bài toán tối uu có ràng
buộc nên trong quá trình chọn lọc dựa vào hàm thích nghi có thể có những cá thể
không thỏa điều kiên ràng buộc. Có nhiều cách để xử lý tình huống này. Cách thông
dụng nhât là dùng kĩ thuật phạt ( penalty technique ). Đây là phương pháp nhằm
chuyển bài toán tối ưu có ràng buộc sang bài toán tối ưu không ràng buộc bằng cách
thêm hệ số phạt vào hàm thích nghi đối với những trường hợp vi phạm điều kiện ràng
buộc.
Trong đó :
f(x) là hàm thích nghi ban đầu của cá thể x ,
ai =1 nếu ràng buộc thứ i vi phạm
- Dùng hệ số nhân
f p (x) =f (x)P(x)
0< P( x ) <1, nếu x không thỏa các điêu kiện ràng buộc.
Trong đó
dik = ai g i ( x ) với i = 1, q
gi ( x ) £0 với i =1,..,q
hi ( x ) =0 với i =q+1,..m
µ
si (t ) =(
Ci t )
Trong luận văn này, dùng phương pháp hàm phạt tĩnh với hệ số nhân.
å åt .h sd sd
Havg = s d
å åt s d
sd
Chọn lọc theo bánh xe Routtle với các rãnh được định kích thước theo độ thích
nghi.
Quá trình xây dựng bánh xe Routtle
o Tính độ thích nghi eval(Ni) của mỗi nhiễm sắc thể Ni ( i=1...pop_size)
o Tìm tổng giá trị thích nghi toàn quần thể
popsize
Tong = å eval(Ni)
i =1
o Tính xác suất chọn pi cho mỗi nhiễm sắc thể Ni:
pi =eval(Ni)/Tong
o Tính vị trí xác suất qi cho mỗi nhiễm sắc thể Ni:
i
qi =å p j
j =1
Tiến trình chọn lọc bằng cách quay bánh xe Routtle popsize lần, mỗi lần chọn
một nhiễm sắc thể theo cách sau:
o Phát sinh ngẫu nhiên một số r trong khoảng [0..1]
o Nếu r<q1 thì chọn nhiễm sắc thể đầu tiên ( N1); ngược lại thì chọn
nhiễm sắc thể thứ i ( Ni ) sao cho qi-1<r<qi.
5.5.4. Lai tạo
Lai tạo đơn điểm: với xác suất lai tạo là pc
o Tạo ngẫu nhiên số r trong khoảng [0..1]
o Nếu r<pc, chọn nhiễm sắc thể đó lai tạo
o Nếu số nhiễm sắc thể được chọn là lẻ cộng thêm một nhiễm sắc thể nữa
rồi tiến hành lai tạo
o Chọn cặp nhiễm sắc thể làm cha mẹ, cắt ngẫu nhiên vị trí lai tạo
o Tiến hành lai tạo
Lai tạo hai điểm: giống như quá trình lai tạo đơn điểm nhưng phải cắt ngẫu
nhiên hai vị trí lai tạo
Chương 6
KẾT QUẢ MÔ PHỎNG
Kết quả bài toán được viết bằng phần mềm Matlab 6.5 để xây dựng thuật toán
di truyền cho bài toán tái cấu hình topo logic.
6.1. Kết quả mô phỏng mạng 5 node
6.1.1 Bài toán thiết kế topo logic LTD ( logical topology design )
- Mạng vật lý: mạng ring 5 node
- Traffic
0 24 18 4 2
30 0 32 6 8
T1 = 2 10 0 16 22
5 14 7 0 28
23 3 9 20 0
Kết quả
- Topo logic
Chạy mô phỏng
Với sự thay đổi traffic, giá trị hop trung bình ứng với topo logic hiện hành lúc
này là : H1’ = 1.53125. Giá trị này là khá lớn.
Trong khi bài toán đưa ra nhằm mục đích là tối thiểu số hop trung bình nhằm
giảm tải đi qua lightpath đồng thời giảm việc xử lý luồng traffic trên mỗi node định
tuyến. Nên nhất thiết phải tìm phương pháp để làm giảm bớt giá trị số hop trung bình.
Nếu dùng phương pháp thiết kế lại từ đầu ( new-design method ) sẽ cho ra kết
quả
- Ma trận kết nối
0 0 1 1 0
0 0 1 1 0
L2 =0 1 0 0 1
1 0 0 0 1
1 1 0 0 0
- Topo logic
So sánh giá trị hop trung bình nhận thấy rằng phương pháp new-design method
có giá trị nhỏ hơn nhiều ( H2 = 1.323863 ) so với ( H1’ = 1.53125 ). Tuy nhiên nếu so
sánh số lightpath thay đổi ở hình 6.1 và hình 6.2 ta thấy có 5 lightpath bị xóa và 5
lightpath được cộng vào. Do đó tổng số lightpath thay đổi khi chuyển từ trạng thái
hiện hành ( hình 6.1 ) đến trạng thái mới ( hình 6.2 ) là rất lớn ( NoChange =10 ) phải
mất nhiều thời gian chuyển đổi và có thể làm thất thoát traffic.
Do đó bài toán đặt ra tìm topo mới sao cho số lightpath thay đổi ít hơn so với
phương pháp new-design method trong khi giá trị hop trung bình có thể chấp nhận
được.
Với cùng một kích thước quần thể là 200, số thế hệ là 200. Tiến hành thay đổi
số lightpath cho phép thay đổi
Ø Lần chạy thứ nhất: với số lightpath cho phép thay đổi tối đa là 4.
Kết quả
- NoChange=4:
- Ma trận kết nối
0 0 1 1 0
1 0 1 0 0
L2,4 =0 1 0 0 1
0 1 0 0 1
1 0 0 1 0
- Topo logic
Traffic T1 T2
New-Design Reconfiguration
Phương pháp LTD
Method Method
Số lightpath thay
10 4
đổi so với L1
Bảng 6.1 : So sánh các phương pháp kiểm soát sự thay đổi traffic
trong mạng 5 node
0 0 1 1 0
0 0 1 1 0
L2,8 =1 0 0 0 1
0 1 0 0 1
1 1 0 0 0
- Topo logic
- Topo logic
- Giá trị hop trung bình H2,10=1.323863 ( bằng với phương pháp design-
method )
Sau ba lần chạy thí nghiệm mô phỏng, nhận ra rằng cứ sau mỗi lần tăng giá trị
lightpath thay đổi thì giá trị hop trung bình càng đạt đến gần giá trị tối ưu ( hình 6.4 )
6.2. Kết quả mô phỏng mạng 7 node
- Traffic yêu cầu
0 30 50 5 6 18 3
35 0 16 2 28 5 6
17 5 0 19 18 7 32
T1 =16 4 24 0 22 8 1
4 19 6 5 0 25 31
20 8 7 30 7 0 9
4 22 9 17 3 13 0
- Topo logic
Chạy luồng traffic mới trên topo logic L1 được giá trị hop trung bình
H1’ = 1.2576
Dùng phương pháp Design-method
- Ma trận kết nối
0 0 0 1 1 1 1
0 0 1 0 1 1 1
1 0 0 1 1 0 1
L2 =1 1 1 0 1 0 0
1 1 0 0 0 1 1
1 1 1 1 0 0 0
0 1 1 1 0 1 0
- Topo logic
- Giá trị hop trung bình H2= 1.1128 ( lúc này số lightpath thay đổi là 12 )
Dùng phương pháp reconfiguration
- Nochange = 4
- Ma trận kết nối
0 1 0 1 1 1 0
1 0 1 0 1 0 1
1 0 0 1 1 0 1
L2,4 =1 0 1 0 1 1 0
0 1 1 0 0 1 1
1 1 0 1 0 0 1
0 1 1 1 0 1 0
- Topo logic
Traffic T1 T2
New-Design Reconfiguration
Phương Pháp LTD
Method Method
Topo logic L1 L1 L2 L2
Bảng 6.2 : So sánh các phương pháp kiểm soát sự thay đổi traffic
trong mạng 7 node
6.3. Ảnh hưởng của số lightpath thay đổi đến giá trị hàm mục tiêu
Hình 6.4 : Tái cấu hình với số lightpath thay đổi khác nhau
Sau 2 lần chạy nhận thấy rằng đường đi để đạt đến kết quả của thuật toán GA là
khác nhau vì GA là thuật toán tìm kiếm ngẫu nhiên.
Kết luận
Công nghệ WDM đem lại nhiều cơ hội cho các nhà khai thác mạng, giảm chi
phí và tăng dung lượng đáp ứng nhu cầu phát triển trong nhiều năm tới. Tuy nhiên, khi
sử dụng công nghệ mới cũng sẽ có nhiều thử thách cho việc ứng dụng hiệu quả các đặc
tính tiên tiến mà vẫn duy trì được tính liên tục trong phát triển mạng lưới. Do vậy, một
trong những vấn đề quan trọng được trình bày trong đề tài là thay đổi cấu hình topo
logic. Đề tài đã vận dụng thuyết tiến hóa trong sinh học của Darwin thay đổi cấu hình
topo logic cho mạng WDM thông qua thuật toán di truyền GA.
Áp dụng GA để giải bài toán tái cấu hình topo logic trong mạng quang WDM
đã đạt được kết quả tương đối trong một thời gian có thể chấp nhận được. Tùy theo
điều kiện cụ thể mà ta có thể cân nhắc giữa thời gian tìm kiếm và mức độ tối ưu của
bài toán. Thời gian tìm kiếm càng dài thì mức độ tối ưu càng cao.
Số lightpath thay đổi lớn thì không gian tìm kiếm càng rộng, kết quả càng gần
tối ưu hơn.
Hạn chế của đề tài
o Tập trung vào thuật toán để giải quyết bài toán tái cấu hình, không đi sâu
vào lý thuyết mạng WDM.
o Vẫn chưa giải quyết được bài toán với mạng động.
o Không có sự so sánh thuật toán GA với thuật toán khác nên chưa làm nổi
bật được ưu điểm của thuật toán GA.
o Vẫn chưa giải quyết được bài toán chuyển tiếp cấu hình từ topo logic cũ
sang topo logic mới
o Chỉ mới giải quyết bài toán với luồng traffic là STM-1
o Chưa giải quyết được vấn đề thời gian khi sử dụng bài toán tái cấu hình
o Không gian tìm kiếm không mềm dẻo nên khi số node mạng tăng lên
dẫn đến khó khăn.
[1] ThS. Ngô Thanh Ngọc, ThS. Võ Nguyễn Quốc Bảo “Thiết kế topo logic cho
mạng quang WDM dùng thuật toán di truyền”, Học Viện Công Nghệ Bưu Chính
Viễn Thông, 2005.
[2] Đặng Trần Phương, “Dùng thuật toán di truyền giải bài toán tái cấu hình topo
logic mạng quang WDM”, Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông, 2005.
[3] Lê Huỳnh Bích Ngân, “Định tuyến bước sóng trong mạng WDM”, Học Viện
Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông, 2003.
[4] TS. Nguyễn Đình Thúc ( chủ biên ), “Trí tuệ nhân tạo – Lập trình tiến hóa – Cấu
trúc dữ liệu + Thuật giải di truyền = Chương trình tiến hóa”, NXB Giáo Dục,
2001.
[5] “Lý Thuyết Đồ Thị”, Đại Học Khoa Học Tự Nhiên.
[6] Passakon Prathombutr, “Virtual Topology Reconfiguration in Wavelength-Routed
Optical Networks”
[7] N. Sreenath, C. S. R. Murthy, B. H. Gurucharan, and Mohan, “A Two-stage
Approach for Virtual Topology Reconfiguation of WDM Optical Networks”
[8] Der-Rong Din, “A Generic Algorithm for Solving Virtual Topology
Configuaration Transition Problem in WDM Networks”
[9] D. Banerjee and B. Mukherjee, “Wavelength-Routed Optical Networks: Linear
Formualation, Resource Budgeting Tradeoffs, and A Reconfiguration Study”,
IEEE/ACM Transactions on Networking, vol.8, no.5, pp.684-696, October 1996.
[10] A. Narula-Tam and E. Modiano, “Dynamic Load Balancing in WDM-based
Packet Networks With and Without Wavelength Constrains”, IEEE Journal on
Selected Areas in Communications, vol.18, no.10, pp 1972-1979, October 2000.
[11] Rajiv Ramaswami and Kumar Sivarajan, “Optical Networks”, A Practical
Perspective, San Francisco : Morgan Kaufman, 1998.
[12] B. Ramamurthy and A. Ramakrishman, “Virtual Topology Reconfiguration of
Wavelength-Routed Optical Networks”